Introduction: The Ripening of A Masterpiece
The April 1936 issue of Esquire contained an article entitled “On the Blue Water: A Gulf Stream Letter,” written by the magazine’s featured contributor Ernest Hemingway. It was a rambling little piece that began with a debate between the author and a friend on the relative thrills of deep-sea fishing and big-game hunting. After a page or so of badinage, Hemingway embarks on a passionate apologia for the joys and beauty of life on the Gulf Stream. That and the other great ocean currents are “the last wild country left.” He goes on to describe his own fishing experiences, adding stories told to him by his Cuban mate Carlos. One of the latter was about a giant marlin:
…an old man fishing alone in a skiff out of Cabañas hooked a great marlin that, on the heavy sashcord handline, pulled the skiff out to the sea. Two days later the old man was picked up by fisherman sixty miles to the eastward, the head and forward part of the marlin lashed alongside. What was left of the fish, less than half, weighed eight hundred pounds. The old man had stayed with him a day, a night, a day and another night while the fish swam deep and pulled the boat. When he had come up the old man had pulled the boat up on him and harpooned him. Lashed alongside the sharks had hit him and the old man had fought them out alone in the Gulf Stream in a skiff, clubbing them, stabbing at them, lunging at them with an oar until he was exhausted and the sharks had eaten all that they could hold. He was crying in the boat when the fishermen picked him up, half crazy from his loss, and the sharks were still circling the boat.
This is clearly an almost perfect short short-story. It is also an unforgettable one, not only because of the strangeness of the event but also because it conveys an almost physical sensation to the reader.
I read it as a schoolboy of fifteen. In my boarding-school days, Esquire was frowned upon by our rector, Dr. Drury, on the grounds that it was “not manly.” (I wonder how Hemingway might have responded to that criticism.) In any case, the story stuck in my mind ever after.
More important, it stuck in Hemingway’s mind. Clearly he appreciated its value as the germ of a work of literature. Three years later, in a letter to his editor Max Perkins about a new book of short fiction he was planning to write, he mentioned
one about the old commercial fisherman who fought the swordfish all alone in his skiff for 4 days and four nights and the sharks finally eating it after he had it alongside and could not get it to the boat. That’s a wonderful story of the Cuban coast. I’m going out with old Carlos in his skiff so as to get it all right. Everything he does and everything he thinks in all that long fight with the boat out of sight of all the other boats all alone on the sea. It’s a great story if I can get it right. One that would make the book.
But the collection that was to contain that story never got written because one of the stories about the Spanish Civil War “took off,” and before he knew it Hemingway had written fifteen thousand words and found himself well into the novel that was published the following year under the title For Whom the Bell Tolls.
It was not until January 1951 — fifteen years after its first appearance in Esquire — that Hemingway returned to the “Santiago story,” as he called it. He was living then in his home in Cuba and able to devote himself to the work. The writing went unusually well, and Hemingway was overjoyed by this surging of creative powers.
As he had originally planned to do, Hemingway took the external details of the story and presented them from the point of view of the fisherman. He thus made it possible for the reader to participate imaginatively in the story. That effect was always Hemingway’s primary aim as a writer.
The story’s spiritual themes enhance its meaning and impact. In the thoughts of Santiago, the reader shares the beliefs of a simple fisherman whose pride in his endurance is combined with the fatalistic sense that he has “gone out too far,” and whose efforts to kill his prey are combined with a reverence for life. It is impossible to read this story without believing that in many respects it represents Hemingway’s own ideals of manhood.
For a time, it was his plan to publish the tale as part of a collection, but he accepted an unusual offer to have it appear in a single installment in Life magazine. Its appearance in book form followed shortly.
The Old Man and the Sea was an immediate success throughout the world. It was specifically cited when the Nobel Prize for Literature was awarded to Hemingway in 1954. In fact, its success was so great that it lead to a broad revival of interest in all of Hemingway’s works which has continued to the present day. It is a curious fact of literary history that a story which describes the loss of a gigantic prize provided the author with the greatest prize of his career.
— Charles Scribner Jr.
Source: http://catdir.loc.gov/catdir/enhancements/fy0640/96011419-s.html
—
Lời giới thiệu: Sự Chín Muồi Của Một Tuyệt Tác
Charles Scribner Jr.
Võ Tấn Phát dịch
Ấn phẩm Tháng 4 năm 1934 của tạp chí Esquire có một tiểu luận với tựa đề “Trên Vùng Nước Biếc: Lá Thư Từ Vùng Nhiệt Lưu”, bởi một cộng tác viên Ernest Hemingway. Đó là một bài viết ngắn rời rạc bắt đầu bằng cuộc tranh luận giữa tác giả và một người bạn về sự phấn khích của câu cá ngoài khơi xa và săn thú lớn. Sau khoảng một trang đùa cợt, Hemingway lao vào biện hộ nhiệt thành cho niềm vui và cái đẹp của cuộc sống trên vùng Nhiệt Lưu. Nó và những dòng hải lưu trên các đại dương khác là “chốn hoang dã cuối cùng còn sót lại”. Ông tiếp tục mô tả những kinh nghiệm đánh cá của mình, thêm vào những câu chuyện do người bạn đánh cá người Cuba tên Carlos kể lại. Một trong những câu chuyện đó kể về một con cá kiếm khổng lồ:
… một ông già đánh cá một mình trên chiếc thuyền nhỏ ngoài khơi Cabañas câu được một con cá kiếm vĩ đại, rồi con cá mắc sợi dây câu bền chắc, kéo chiếc thuyền ra biển. Hai ngày sau ông già được ngư dân giải cứu cách đó 60 dặm về hướng đông, với đầu và phần trên của con cá buộc bên chiếc thuyền. Những gì còn lại của con cá, chỉ còn hơn một nửa, nặng hơn 800 cân Anh. Ông già đã giữ con cá một ngày, một đêm, một ngày rồi một đêm nữa trong khi con cá lặn sâu và lôi chiếc thuyền đi. Khi con cá trồi lên ông già kéo chiếc thuyền tới gần và phóng lao giết nó. Những con cá mập tấn công con cá kiếm cột bên cạnh chiếc thuyền và ông già chiến đấu một mình trên vùng Nhiệt Lưu trên một chiếc thuyền nhỏ, đập chúng, đâm chúng, thọc vào chúng bằng mái chèo cho đến khi ông kiệt sức và đám cá mập ăn hết tất cả những gì chúng đớp được. Ông già khóc ròng trên chiếc thuyền khi những ngư dân giải cứu, gần như điên loạn vì mất mát, và những con cá mập vẫn lượn quanh thuyền.
Đây hiển nhiên là một câu chuyện ngắn gần như hoàn hảo. Nó cũng là một câu chuyện không thể nào quên, không phải chỉ vì sự kỳ lạ của biến cố đó mà còn bởi vì nó dường như gây ra một cảm nhận thể xác cho độc giả.
Tôi đọc câu chuyện khi còn là cậu học trò 15 tuổi. Trong thời học sinh của tôi, Esquire không được sự tán đồng của thầy hiệu trưởng của chúng tôi, tiến sĩ Drury, vì nó không đủ “nam tính”. (Tôi đang tự hỏi Hemingway sẽ đáp lại lời kết án này như thế nào.) Dù sao thì câu chuyện đã ăn sâu vào trí óc tôi mãi từ đó.
Quan trọng hơn, câu chuyện ăn sâu vào trí óc của Hemingway. Rõ là ông coi giá trị của nó như một viên ngọc của văn chương. Ba năm sau, trong thư gởi cho người biên tập của ông tên Max Perkins về một cuốn tiểu thuyết ngắn ông dự định viết, ông đề cập
câu chuyện về một ngư dân chiến đấu với một con cá kiếm đơn độc trên chiếc thuyền nhỏ trong 4 ngày và 4 đêm và những con cá mập đã ăn sạch con cá kiếm sau khi ông cột nó bên chiếc thuyền nhỏ và không thể kéo nó lên thuyền. Một câu chuyện tuyệt vời bên bờ biển Cuba. Tôi đang ra khơi với cụ Carlos trên chiếc thuyền nhỏ của cụ để thấu hiểu hết câu chuyện. Mọi thứ ông làm và mọi điều ông nghĩ trong cuộc chiến dài trên chiếc thuyền nhỏ đơn độc trên biển cả. Câu chuyện sẽ rất hay nếu tôi đủ sức viết. Một câu chuyện có thể viết thành một cuốn sách hay.
Nhưng cuốn sách về câu chuyện đó đã không được viết ra bởi vì một trong những câu chuyện về Nội Chiến Tây Ban Nha đã “bắt đầu”, và trước khi hiểu ra thì Hemingway đã viết 50 ngàn chữ và đắm mình vào cuốn tiểu thuyết được xuất bản năm sau đó với nhan đề Chuông Nguyện Hồn Ai.
Mãi đến tận tháng 1 năm 1951 — mười lăm năm sau khi xuất hiện lần đầu tiên trên Esquire — Hemingway mới quay lại “câu chuyện Santiago“, như cách ông gọi nó. Lúc đó ông đang sống trong căn nhà ở Cuba và có thể dành hết mình cho tác phẩm. Công việc viết dễ dàng một cách khác thường, và Hemingway vui mừng vô hạn vì sự dâng trào năng lượng sáng tạo này.
Như ông đã tính toán lúc đầu, Hemingway lấy những chi tiết bên ngoài của câu chuyện và trình bày chúng từ quan điểm của ông lão đánh cá. Như thế ông đã giúp độc giả có thể tham dự trong trí tưởng tượng vào câu chuyện. Hiệu quả đó luôn luôn là mục đích viết văn của Hemingway.
Những chủ đề tâm linh trong câu chuyện làm tăng thêm ý nghĩa và tác động của nó. Trong những suy nghĩ của Santiago, độc giả chia sẻ những tín điều của một ngư dân chất phác, mà lòng tự hào vào sức chịu đựng của mình lại đi đôi với cảm giác thất bại rằng ông đã “đi quá xa”, những nỗ lực giết con mồi đi đôi với trân trọng mạng sống. Không thể đọc câu chuyện này mà không tin rằng trong nhiều khía cạnh nó đại diện cho những quan niệm lý tưởng về nam tính của chính Hemingway.
Có một lúc, ông định xuất bản câu chuyện trong một tuyển tập, nhưng rồi ông chấp nhận lời đề nghị khác thường để xuất bản toàn bộ câu chuyện trong một kỳ của tạp chí Life. Câu chuyện được in thành sách không lâu sau đó.
Ông Già và Biển Cả thành công ngay lập tức trên toàn thế giới. Nó được trích dẫn khi giải Nobel Văn Chương được trao cho Hemingway năm 1954. Sự thực là, thành công của nó quá lớn đến mức làm phục hồi sự hứng thú tới tất cả những tác phẩm của Hemingway, một sự hứng thú vẫn tiếp tục đến tận hôm nay. Đó là một sự kiện kỳ lạ trong lịch sử văn chương: câu chuyện kể về một sự mất mát khổng lồ lại đem đến cho tác giả phần thưởng lớn nhất trong sự nghiệp của mình.
—
—
—