Suiseki and the Chrysanthemum

Chrysanthemum in Vase
Suiseki and the Chrysanthemum
Phat Vo

Chrysanthemums were first cultivated in China in 15th century BC. In 5th century Tao Qian canonized the chrysanthemum as a recluse of flowers, as his poetic lines “I pluck chrysanthemums under the eastern hedge/Then gaze long at the distant summer hills” told of a dream of finding peace in a bustling district. The Chinese literati class included the chrysanthemum among the Four Nobles (along with the plum blossom, orchid, bamboo) in arts and literature. In the Mustard Seed Garden Manual of Painting first published in China in the 17th century, The Book of Chrysanthemums preface summed up the characteristics of the chrysanthemum the literati so much admired:

“The chrysanthemum is a flower of proud disposition; its color is beautiful, its fragrance lingers… Although the chrysanthemum is usually placed in the category of herbaceous plants, its proud blossoms brave the frost and it is classed with the pine (i.e., with trees and ligneous plants). Its stem is solitary and strong, yet as supple as the stems of spring flowers. Its leaves are rich and sleek, yet they have aspects of varied as those that quickly fade.”

Gao Fenghan, Chrysanthemums and Rock
Gao Fenghan, Chrysanthemums and Rock
Woodblock print by Utagawa Hiroshige
Woodblock print by Utagawa Hiroshige

Chrysanthemums later spread to Korea, Japan, and Vietnam, and were loved by the Confucian literati as well as the Buddhist monks. The Japanese were so taken by the chrysanthemum that they made it the Emperor’s crest. Chrysanthemums have permeated the whole of Japanese society, from the court’s symbol, to the noblemen’s ink paintings, to the monks’ haiku, to the farmers’ decorations on everyday utensils. The Japanese tearoom was constructed with Tao Qian’s philosophy, as a serene haven in the middle of a noisy city.

Japanese Emperor’s Crest
Japanese Emperor’s Crest

Naturally suiseki connoisseurs love chrysanthemum stones. It seems like a miracle to have a picture of an elegant and intricate chrysanthemum flower imprinted on a piece of hard rock in nature. People who are fortunate enough to find one in nature can talk for hours about that marvelous moment he or she discovered such a stone.

Last summer after visiting Mt. Rainier and on the way home, we stopped at the Eel River to look for stones. We walked along the river for hours without finding anything significant. When we decided it was time to head back, I saw a chrysanthemum stone in front of me. We dug it up, cleaned it, and were thrilled with joy. We just stayed there and discussed the best way to present it. One position suggested a Chinese poet with white hair holding a few chrysanthemum flowers; another position seemed like chrysanthemums in front with Mt. Fuji in the background. We were so fascinated with our stone that we forgot the time, and later had to walk back to our car in the dark for maybe half an hour.

“Chrysanthemums Under the Eastern Hedge”, WxHxD 11x11x7 inches
“Chrysanthemums Under the Eastern Hedge”, WxHxD 11x11x7 inches
“Chrysanthemums and Mt. Fuji”, WxHxD 11x11x7 inches
“Chrysanthemums and Mt. Fuji”, WxHxD 11x11x7 inches

Chrysanthemums were a symbol of autumn back in old Vietnam, but it was also a familiar flower during Tet (Lunar New Year) when we grew up. In America we still buy chrysanthemums to celebrate Tet and to honor our deceased relatives.

While chrysanthemum stones are extremely rare, chrysanthemum flowers are so common nowadays. We cannot walk into a grocery store or a nursery without spotting some yellow chrysanthemums. We usually just buy a bunch of flowers together without thinking, and don’t even take time to know the fragrance of each type of flower, let alone of the chrysanthemum. And we would throw away the whole vase of flowers at the first sight of a wilted flower or a yellow leaf. Modern life is so convenient that we miss out on the beauty of taking time to appreciate each step of development of a single chrysanthemum flower. And we miss out on some simple surprises that our ancestors enjoyed.

emaciated
yet somehow the chrysanthemums
begin to bud
— Basho, translation by Makoto Ueda

Article appeared in California Aiseki Kai Newsletter November 2022 Issue

Thuỷ Thạch và Cúc
Võ Tấn Phát

Cúc được trồng trước tiên ở Trung Hoa vào thế kỷ 15 trước Công Nguyên. Vào thế kỷ thứ 5, Đào Tiềm điển phạm hoá cúc thành loài hoa ẩn dật, với những câu thơ “Hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nhìn núi Nam” đã ghi lại mơ ước tìm được an bình giữa chốn thị thành nhộn nhịp. Giới văn nhân Trung Hoa liệt cúc vào hàng Tứ Quân Tử (cùng với mai, lan, và trúc) trong văn chương nghệ thuật. Trong cuốn Giới Tử Viên Hoạ Truyền xuất bản lần đầu tiên vào thế kỷ 17, lời nói đầu của tập Cúc Phổ đã tóm tắt những phẩm chất của của cúc mà giới sĩ phu ngưỡng mộ:

“Cúc là loài hoa kiêu hãnh; màu hoa đẹp, hương hoa đọng… Dù cúc được xếp vào loại thân thảo, những đoá hoa kiêu hãnh đối diện với giá rét và cúc được xếp chung với tùng (tức là các loài thân mộc). Thân hoa đứng đơn độc và mạnh mẽ, nhưng mềm mại như thân các loại hoa mùa xuân. Lá cúc đậm màu và trơn láng, nhưng có đầy đủ phẩm chất của các loại lá mau chóng tàn phai.”

Sau đó cúc lan truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, và Việt Nam, và được cả giới sĩ phu Khổng Giáo lẫn giới tu sĩ Phật Giáo yêu chuộng. Người Nhật yêu thích cúc tới nỗi đã lấy cúc làm huy hiệu Hoàng Đế. Cúc đã thấm đẫm xuống mọi tầng lớp của xã hội Nhật, từ huy hiệu của triều đình, tới tranh thủy mặc của giới quý tộc, tới thơ haiku của các nhà sư, cho tới các trang trí trên những vật dụng thường ngày của nông dân. Trà thất Nhật Bản được xây với triết lý của Đào Tiềm, như một trú cư thanh bình giữa phố thị ồn ào.

Lẽ tự nhiên là một người sành thủy thạch yêu thích đá hình hoa cúc (cúc hoa thạch). Hình ảnh đóa hoa cúc thanh nhã mềm mại in trên một phiến đá cứng trong tự nhiên ắt phải là một phép mầu. Ai may mắn tìm được một hòn đá hình hoa cúc có thể huyên thuyên hàng giờ về giây phút tuyệt vời lúc tìm được hòn đá đó.

Mùa hè vừa rồi sau khi thăm viếng núi Rainier, trên đường về nhà, chúng tôi dừng lại ở sông Eel để tìm đá. Chúng tôi đã lang thang hàng mấy giờ liền dọc theo bờ sông mà không tìm được gì. Khi chúng tôi quyết định quay lại, thì tôi thấy một hòn đá hoa cúc ngay trước mặt. Chúng tôi đào lên, rửa sạch bùn đất, và mừng vui khôn xiết. Chúng tôi ngồi bên bờ sông bàn luận nên trưng bày hòn đá như thế nào. Ở một góc nhìn này thì hòn đá giống như một thi nhân Trung Hoa tóc bạc đang cầm vài đóa hoa cúc; ở một góc nhìn khác thì tựa như khóm cúc với núi Phú Sĩ ở hậu cảnh. Chúng tôi bị hòn đá làm mê hoặc đến quên cả thời gian, khi quay lại chỗ đậu xe chúng tôi phải lần mò trong đêm tối cả nửa giờ.

Hoa cúc cũng là biểu tượng mùa thu của Việt Nam một thời xa xưa, nhưng khi chúng tôi lớn lên thì cúc lại rất quen thuộc vào dịp Tết. Ở Mỹ chúng tôi cũng mua cúc về đón Tết và tưởng nhớ những người thân đã mất.

Trong khi đá hoa cúc thì cực kỳ hiếm, hoa cúc lại rất thông thường hôm nay. Chúng ta không thể bước vào bất kỳ ngôi chợ hay vườn cây nào mà không thấy hoa cúc vàng đâu đó. Chúng ta thường mua cả bó hoa mà không chút bận tâm, và không thèm bỏ thời gian ra để nhận biết hương thơm mỗi loại hoa, nói gì đến hương cúc. Rồi chúng ta sẵn sàng đổ cả bình hoa đi khi có dấu hiệu một đóa hoa tàn hay một chiếc lá úa. Đời sống hiện đại quá tiện lợi nên ta làm sao biết được điều tuyệt diệu khi chậm rãi thưởng thức từng nét đổi thay của mỗi đóa cúc. Và ta cũng thiếu vắng những bất ngờ giản dị mà cổ nhân từng thụ hưởng.

úa tàn
mà sao cúc
trổ hoa
— Ba Tiêu

Northern California Suiseki Stones — Sam Edge

Northern California Suiseki Stones
Sam Edge


Earlier that summer our club had taken a trip to the Trinity and the Klamath rivers.  On our drive up to our camp ground on the Klamath we stopped for lunch on the bank of the Trinity River.  It was a beautiful spot with picnic tables, shade trees, and the cool breeze of the roaring river.  I will post photos of that trip at some point.

After lunch we decided to try our hand at locating a few nice stones along the riverbank.  As I was wandering around turning over stones, I came to a clump of bushes that went right into the water.  I decided to go rummaging around in the bushes and low and behold just lying on the ground was this stone.  Janet has reminded me on several trips that often a stone is just lying there as if waiting for you to finally show up to pick it up.  This was clearly the case with this beautiful stone.  Not a single piece of this stone was underground – it was just as if it was patiently waiting for me to come along to pick it up and admire it.

Trinity River Stone, photo by Sam Edge
Trinity River Stone, photo by Sam Edge

Many are going to look at this stone and say “well it has been polished!”  Frankly, if I hadn’t been the one to pick it up in this exact state that is exactly what I would have said as well.  Is this a classic suiseki shape – of course not.  Do we love this stone – yes we do!

I ran this stone over to Mas to see what he thought.  He agreed that had he not been there he would have thought this old patina was created through polishing.  Mas thought this was perhaps the best stone our group found that day – at least until that point…  It is a beautiful stone from both sides.  We elected to have this side be the front as it just “felt better.”  Several people who have seen this stone have said that it should be cut to make a nice mountain stone.  To cut this stone would be to take away the very heart and beauty of it.  To think of the years that this stone was in the water being polished by the running water and sand that cascaded across all sides of this stone.  How long did it take to create this smooth and beautiful patina.  Certainly it was in the river for years and years.  What caused it to reach the shoreline and decide to stay rather than being returned the following winter – who knows.  Perhaps had we not been there that day to pick it up it would have returned last winter when the river once again rose and raged.  But on that Saturday we were there at just the right time to see its beauty and to make it a part of our collection.

To be direct this is not a stone we will sell or give away. At some point it will be returned to the trinity as it reminds us that most things in life are never owned but simply on loan.  I hope you think the diaza Koji Suzuki made for this stone allows us to appreciate it in how it is displayed.

Later that afternoon we headed on up to the Klamath river where we stayed less than 100 yards away from the water.  On Sunday, while walking the banks I had decided to run back and pick up a stone that I had sat aside to show Mas to see what he thought of it.  While walking back and before crossing over some 6 foot bushes to where our group was sitting on the river bank while watching small, fresh steelhead running through the water I looked down and saw this stone.

Tranquility, photo by Sam Edge
Tranquility, photo by Sam Edge

We will need to post some more photos of this stone for you as this bronze color patina is natural and unpolished by human hands.  At first when I saw it I wasn’t quite sure what it was other than a deep copper colored bronze-like stone.  When I picked it up and held it the thing that struck me about this stone was it’s softness – and just by holding it it brought a sense of tranquility.  Often I see or hold stones and its texture and color brings other emotions of almost all of which are not tranquility.  I’m not saying that looking at a nice distant mountain stone doesn’t bring about a sense of peace but this stone exuded a state of tranquility.  Much like when you are quietly walking through a forest where even the sound of your feet somehow never escapes the ground to your ears.  That kind of quietness – that sense of peace.

We debated a long time how to display this stone.  Our first thought was just a simple pillow – I still think this is best – but in the end we wanted to have a diaza made for this stone so we can display it as some future point in a show.  Is this stone perfectly smooth – we think not, but it does give a sense of smoothness in a turbulent world.  My personal work is often extremely stressful, most start-ups are, and the one I’m helping is no exception.  Trying to raise capital, building a product on a limited budget, and trying to meet often conflicting priorities will raise one’s blood pressure. What I do find though when I think my day is spiraling out of control is that I walk away from my computer(s) and I take a few minutes to gaze upon this stone at least for a short moment a sense of tranquility departs from it and envelops my state of mind.
Let me say that many who read this post might wonder if the stress hasn’t perhaps sent me over the ‘edge’ – no pun intended – but I would challenge you that if your stones or suiseki isn’t evoking this kind of visceral reaction are you taking enough time to study your stone to see what it has to offer?

I must admit that before we took up suiseki and tanseki trips, we often saw stones and quickly passed by them. Sometimes with a brief appreciation but often that was only fleeting.  Perhaps age has something to do with the desire to slow down and to take the time to be a bit more observant of one’s surroundings.  I’m not exactly sure but we do know that these stones in our lives recently have caused us to pause and ponder – isn’t that a good thing?

Source: https://samedge.wordpress.com/2010/04/10/northern-california-suiseki-stones/

Thủy Thạch của Bắc California
Sam Edge
Võ Tấn Phát dịch


Trước đó vào mùa hè hội đá của chúng tôi đã tổ chức các chuyến đi đến các con sông Trinity và Klamath. Trong lúc lái xe đến chỗ cắm trại trên sông Klamath chúng tôi dừng lại ăn trưa trên bờ sông Trinity. Một chỗ phong cảnh đẹp có bàn ghế dưới bóng râm của những tán cây, và gió nhẹ thổi qua con sông đang gầm vang rền. Tôi sẽ đăng hình chuyến đi đó khi có dịp.

Sau bữa trưa chúng tôi đi dọc theo bờ sông tìm kiếm đá. Trong khi đang lang thang lật các viên đá lên ngắm nghía, tôi đụng một đám cây rậm rạp kéo dài xuống tận mé nước. Tôi quyết định lục lọi trong những bụi cây này và bất ngờ thấy hòn đá này nằm trên mặt đất. Janet thường nói trong nhiều chuyến tìm đá là có những hòn đá cứ nằm đó dường như chờ người tới lượm. Hòn đá xinh đẹp này là một trường hợp như vậy. Không có phần nào của hòn đá nằm chìm dưới đất cả – cứ như hòn đá kiên nhẫn nằm chờ đợi tôi đến lượm lên và chiêm ngưỡng nó vậy.

Trinity River Stone, photo by Sam Edge
Trinity River Stone, photo by Sam Edge

Nhiều người nhìn thấy hòn đá này sẽ nói “hòn đá này đã được mài bóng!” Và thật sự là nếu chính tôi không thấy hòn đá này và lượm nó lên như vậy thì chắc chắn tôi cũng sẽ nghĩ như thế. Nó có phải là dáng thủy thạch cổ điển không – dĩ nhiên không. Tôi có yêu thích hòn đá này không – dĩ nhiên là có!

Tôi đem hòn đá này đến hỏi ý kiến Mas. Ông đồng ý là nếu mà không có mặt ở đó thì ông cũng sẽ nghĩ rằng bề mặt già cỗi của hòn đá là do mài mòn. Mas nghĩ rằng đây là viên đá đẹp nhất mà cả nhóm đã lượm được ngày hôm đó – ít ra là cho đến lúc đó… Hòn đá đẹp cả hai mặt. Chúng tôi chọn chưng mặt này ra trước vì “cảm thấy đẹp hơn”. Một vài người thấy hòn đá này cứ đòi cắt hòn đá để nó thành hình núi đẹp. Nhưng cắt hòn đá này là cắt đi linh hồn và vẻ đẹp của hòn đá. Hãy nghĩ về những năm tháng hòn đá này nằm dưới nước được mài mòn do nước và cát cứ chảy mãi miết qua bề mặt đá. Phải mất bao lâu mới tạo được bề mặt láng và dáng già cỗi miên man như thế. Hiển nhiên hòn đá đã nằm dưới nước năm này qua năm khác. Duyên cớ gì mà hòn đá đã tới bờ sông và quyết định nằm lại đó thay vì trở lại dòng sông khi nước dâng vào mùa đông sau đó – ai mà biết được. Có lẽ nếu chúng tôi không có mặt hôm đó để lượm hòn đá lên thì nó đã quay lại lòng sông vào mùa đông năm đó khi nước theo chu kỳ lại đầy tràn cuồn cuộn chảy. Nhưng vào ngày thứ bảy đó chúng tôi đã ở đó đúng lúc để nhận ra vẻ đẹp của nó và thêm vào bộ sưu tập của mình.

Xin nói thẳng là đây không phải là viên đá mà chúng tôi sẽ bán hay tặng. Đến lúc nào đó nó sẽ được trả về dòng sông Trinity để nhắc nhở chúng ta rằng hầu hết mọi thứ trên đời không phải là của cải sở hữu mà chỉ là đồ thuê mướn. Tôi hy vọng rằng cái đế gỗ do Koji Suzuki chạm khắc sẽ cho thấy được hết vẻ đẹp của hòn đá lúc trưng bày.

Chiều hôm đó chúng tôi đi tiếp tới sông Klamath và ngủ chỉ cách bờ sông 100 m. Sáng Chủ Nhật trong khi đang dạo trên bờ sông tôi quyết định quay lại lấy một hòn đá tôi để riêng ra cho Mas coi và hỏi ý kiến ông. Trong khi quay lại và trước khi qua một lùm cây rộng khoảng 2 m để đến chỗ cả nhóm đang ngồi coi cá hồi nhỏ đang vượt sông, tôi nhìn xuống và thấy hòn đá này.

Tranquility, photo by Sam Edge
Tranquility, photo by Sam Edge

Chúng tôi sẽ đăng thêm nhiều tấm hình của hòn đá này độc giả thấy sắc cổ màu đồng của hòn đá là tự nhiên và không do tay người mài. Lúc đầu khi tôi thấy nó tôi không chắc nó là gì khác hơn là một hòn đá màu đồng sậm. Khi lượm nó lên và cầm trong tay thì điều làm tôi ngạc nhiên là sự mềm mại của hòn đá – và chỉ cần cầm trong tay là nó đem lại cảm giác bình an. Thường khi tôi nhìn thấy hay cầm một hòn đá, bề mặt và màu sắc của nó gợi những cảm giác hầu hết không phải là bình an. Tôi không nói là khi ta nhìn một hòn đá tuyệt vời hình núi xa thì ta không có cảm giác thanh bình, nhưng hòn đá này như ứa ra sự bình an. Tựa như khi ta yên lặng dạo bước qua một khu rừng mà thậm chí tiếng bước chân không thoát khỏi mặt đất để tới tai ta. Chính sự yên tĩnh đó – chính cảm giác yên bình đó.

Chúng tôi đã tranh luận rất lâu làm sao để trưng bày hòn đá này. Lúc đầu chúng tôi nghĩ chỉ cần đặt trên một cái gối đơn giản – tôi vẫn nghĩ đó là cách tốt nhất – nhưng cuối cùng chúng tôi muốn có một cái đế gỗ để trưng bày hòn đá như một tâm điểm trong triển lãm trong tương lai. Hòn đá có hoàn toàn phẳng lặng không – chúng tôi không nghĩ vậy, nhưng nó đem lại một cảm giác phẳng lặng trong một thế giới hỗn loạn. Công việc của tôi thường vô cùng căng thẳng, hầu hết các công ty khởi nghiệp đều như vậy, và công ty mà tôi đang tư vấn cũng không phải ngoại lệ. Tìm vốn đầu tư, tạo ra sản phẩm với ngân sách giới hạn, và cố gắng làm theo những tiêu chuẩn đôi khi mâu thuẫn nhau, tất cả đều làm điên đầu. Nhưng ngày nào mà tôi thấy mệt mỏi bất lực, tôi thấy rằng nếu tôi đứng dậy rời bàn làm việc và ngắm nhìn hòn đá này chỉ vài phút thôi, thì một cảm giác bình an sẽ rời hòn đá đến ôm ấp hồn tôi dù chỉ trong chốc lát. Nhiều người đọc tới đây sẽ nghĩ rằng căng thẳng đẩy tôi xuống bờ vực [tác giả chơi chữ: edge là họ của tác giả mà cũng có nghĩa là bờ vực – ND] – nhưng nếu hòn thủy thạch của bạn không gợi nên phản ứng tự đáy lòng như thế này, tôi muốn hỏi rằng bạn đã dành đủ thời gian nghiên cứu hòn đá để thấy nó đem lại điều gì cho bạn chưa?

Tôi phải thừa nhận rằng trước khi nhập môn thủy thạch và đi tìm đá, chúng tôi cũng thường thấy đá và chỉ lướt qua thôi. Đôi khi có chút yêu thích nhưng thường thoáng qua rồi thôi. Có lẽ tuổi tác làm chúng tôi mong muốn chậm rãi lại và để thời gian quan sát kỹ hơn thế giới xung quanh. Tôi không biết chắc nhưng những hòn đá đã đi vào đời chúng tôi gần đây đã làm chúng tôi dừng lại và suy gẫm – như thế không tốt sao?

A Suiseki Secret

3C7AE7D5-A1B5-400D-BA46-9AB0FD55D2AF
Lisa and Phat found this boat stone together on an Eel River beach. It was a hot summer day and the river was beautiful…

A Suiseki Secret
Phat Vo

There is an open secret that terrifies most men in all suiseki clubs: women find better suiseki than men do. If men had known better, it is how it is. It is no accident that diamond is a girl’s best friend. Women appreciate precious stones more than men do. In fact, more likely women were first to use precious stones as decorative objects. Men were just brutes, and for them, all rocks were either weapons or tools, and only value precious stones because women love them. And despite all the algorithms and calculations and tools to detect the precious stone mines, men could barely know a piece of jade from a piece of dirt, and so they could hardly find enough precious stones for world need. If men had just let women take charge of the precious stone businesses, women would have mined the whole universe of these precious rocks. When it comes to suiseki it is natural that women are attracted to better stones.

But we men should not be ashamed of it. After all it is just one in a zillion things women can do better than men. Men when alone are simple minded, concerned mostly with food and drinks. Only after meeting women, men become poets and artists and musicians; and only after marriage men become philosophers of some sort. But like most everything men put their hands and minds to, they tend to overdo it. Men then need women to bring them down to earth.

One day late at night while Socrates was in a deep conversation with his friends, his wife Xanthippe gave him either a subtle call to mate or a not-so-subtle call to take out the trash. But since men don’t like to run away from a fight, physical or meta-physical, Socrates played the absent minded card and ignored her. Her call got louder and eventually Xanthippe dumped a bucket of water over his head. Socrates just smiled and said, “This is quite natural. After thunder comes rain.”

Father of Western Philosophy or not, Socrates was no match for his wife Xanthippe, Mother of Universal Reality.

But let’s stop beating a dead horse (I mean dead men of the past) and let’s go back to the trouble we men of rocks are facing now. After collecting long enough, most men realize they cannot compete with their women, no matter how hard they try.

So some men just give up and follow their woman’s lead. At an exhibition when they are asked about their rocks, these men might say something like, “Oh, I am just here to support my wife.” We just pretend to recognize their apparent selflessness with comments like, “That’s very nice of you.” Others just continue to collect, only to sit in silence at suiseki exhibitions. Then guests just ignore their stones and go straight to their women’s suiseki and start praising them.

I have my own way to cope with that and I will reveal it here if you promise not to tell my wife. After countless times of reading and contemplating over Sun Tzu’s “The Art of War” and many years of practicing martial arts, I came up with my strategy, somewhere between “snatch victory from the jaws of defeat” and “if you can’t beat them, join them.” I learned to make daiza before my wife could learn and master the skill, and spent good money on suiban and doban for her stones. Then I submit our stones under our names “Lisa and Phat” for suiseki shows. At the show if some nosy guests still ask, “So, who found it?” I just calmly and casually say, “We found it together on the banks of the Kern River” for example, and then I quickly change the subject by describing the beauty of the stone and/or telling them about the weather or the scenery when we found it.


Aiseki Kai Newsletter, July 2022 issue

3C7AE7D5-A1B5-400D-BA46-9AB0FD55D2AF
Trang và Phát cùng tìm thấy hòn đá hình thuyền này bên bờ sông Eel. Hôm đó nhằm mùa hè, trời thì nóng, và phong cảnh trên sông như tranh…


Một Bí Mật trong Thuỷ Thạch

Võ Tấn Phát

Có một bí mật ai cũng biết, mà hầu hết các đấng nam nhi trong các hội đá đều kinh hãi: phụ nữ tìm được đá đẹp hơn nam giới. Nếu đàn ông hiểu biết hơn chút thôi, thì chuyện đó là hiển nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà kim cương là người bạn tốt nhất của phụ nữ. Phụ nữ xem trọng đá quý hơn nam giới. Thực ra có lẽ phụ nữ mới biết bắt đầu dùng đá quý để trang điểm. Đàn ông thì như thú hoang, đá thì hoặc là dụng cụ hoặc là vũ khí thôi, và chỉ biết coi trọng đá quý vì phụ nữ yêu thích chúng. Và mặc cho những phương pháp tính toán, đo đạc, máy móc đủ thứ, để dò tìm các mỏ đá quý, đám đàn ông cũng chẳng phân biệt nổi kim cương với bùn đất, và vì vậy bọn họ đâu tìm đủ đá quý cho thiên hạ dùng. Nếu mà đàn ông chịu nhường chuyện tìm đá quý cho phụ nữ thì chắc phụ nữ đã đào hết đá quý trong vũ trụ này rồi. Lẽ tự nhiên là trong môn thủy thạch, đàn bà cũng thu hút đá đẹp hơn hẳn đám đàn ông.

Nhưng đàn ông chúng ta cũng không nên coi đó là chuyện xấu hổ. Nói cho cùng đó chỉ là một trong hàng tỷ tỷ thứ trên cõi đời đàn bà giỏi giang hơn đàn ông. Đàn ông ở một mình thì đầu óc đơn giản, chỉ biết lo chuyện ăn nhậu. Chỉ khi gặp đàn bà rồi, đàn ông mới thành nào là thi sĩ nào là nghệ sĩ nào là nhạc sĩ; chỉ khi cưới vợ rồi đàn ông mới thành triết gia. Nhưng như bất cứ thứ gì trên đời mà đàn ông chú tâm bắt tay vào, đàn ông thường đi quá đà. Lúc đó thì đàn ông lại cần đàn bà kéo họ trở về mặt đất.

Một đêm khuya nọ trong khi Socrates thảo luận những vấn đề sâu sắc với bạn bè, bà vợ Xanthippe cất tiếng gọi, hoặc là lời gọi tình dịu dàng kín đáo, hoặc là tiếng gọi đi đổ rác chẳng kín đáo cũng chẳng dịu dàng gì. Nhưng vì đàn ông không thích bỏ cuộc trong lúc giao đấu, dù là đấu sức hay đấu trí, Socrates giả đò đãng trí không nghe. Tiếng gọi càng lúc càng tăng cường độ, rồi cuối cùng bà vợ Xanthippe đổ ụp một thùng nước đầy lên đầu ông chồng. Socrates chỉ biết cười và nói: “Chuyện này bình thường mà. Hết giông bão thì mưa thôi.”

Có là cha đẻ của môn Triết học Tây phương hay không, Socrates không phải là đối thủ của bà vợ Xanthippe, mẹ đẻ của môn Thực tại học của toàn thế giới.

Nhưng hãy ngừng châm chọc những người đàn ông chết lâu lắc trong quá khứ mà trở về với vấn đề nan giải đang làm điên đầu đám đàn ông mê đá của hôm nay. Sau khi đã lặn lội tìm đá đủ lâu, hầu hết đàn ông đều hiểu rằng dù có cố bao nhiêu đi nữa họ không thể nào bằng được với các phụ nữ dấu yêu của đời họ.

Vì thế một số ông đầu hàng số phận và đi theo sự dẫn dắt của người đàn bà của đời họ. Khi triển lãm đá và có ai hỏi về đá của họ, thì các vị đàn ông này sẽ trả lời lấp lửng kiểu như: “Tôi chỉ đến để phụ vợ tôi thôi.” Và chúng ta giả vờ khen ngợi cái dáng vẻ vị tha của họ bằng những lời có cánh đại loại như: “Ồ ông thật là người chồng tốt.” Những ông khác vẫn tiếp tục cuộc chơi, để rồi trong các cuộc triển lãm đá đành ngồi im lặng một đống. Rồi nhìn hết người này đến người khác bỏ qua những viên đá của họ, đi thẳng tới và khen hết lời những viên đá của các bà chủ đời họ.

Riêng tôi lại có cách khác để đương đầu với vấn đề này, và sẽ hé lộ ra đây nếu mọi người hứa là sẽ không nói lại cho vợ yêu quý của đời tôi biết. Sau khi đã đọc đi đọc lại Tôn Tử Binh Pháp không biết bao nhiêu lần, và sau rất nhiều năm tập luyện võ thuật, tôi đã nghĩ ra một âm mưu, nằm đâu đó giữa “chuyển bại thành thắng” và “đánh không lại thì đầu [hàng]”. Tôi học làm đế gỗ cho đá trước khi vợ tôi học làm đế và làm đế đẹp, và tôi mua những cái khay xịn bằng sứ hay bằng đồng cho đá của nàng. Đến kỳ chưng đá tôi để tên chung hai đứa “Trang và Phát” là chủ nhân của các hòn đá. Trong cuộc triển lãm vẫn có nhiều kẻ tò mò hỏi vặn vẹo: “Vậy ai tìm được hòn đá này?”, thì tôi sẽ làm mặt lạnh trả lời tự nhiên như ruồi: “Hai đứa tôi cùng tìm được trên sông Kern”, rồi nhanh chóng chuyển đề tài sang tán chuyện vẻ đẹp của hòn đá hay thời tiết hôm lượm được hòn đá đó.

Pathway to Zen — Janet Roth

Pathway to Zen
Janet Roth

I have written before about the suiseki that was given to Mas by his teacher, Mr. Hirotsu.  It is not a stone that immediately strikes the eye but instead rewards long, quiet, contemplation.  As I’ve related, Mas said he did not understand the stone at all when Mr. Hirotsu gave it to him. Over many years he came to realize that Hirotsu-sensei had been trying to lead him, through this suiseki, to the world of Zen.

“Pathway to Zen” (“Lối Thiền”); 7″ x 4.5″ x 5″; Keiseki Hirotsu
“Pathway to Zen” (“Lối Thiền”); 7″ x 4.5″ x 5″; Keiseki Hirotsu

Mas could certainly appreciate dramatic stones and even enjoyed a bit of “bling”, but always it was the spiritual depths of quiet and subtle suiseki that drew him. This can perhaps be felt in the stone he called “Daruma”. Like the one from Mr. Hirotsu, it has depths waiting to be explored.

“Daruma” (“Đạt Ma”); 6″ x 4.5″ x 6″; Mas Nakajima
“Daruma” (“Đạt Ma”); 6″ x 4.5″ x 6″; Mas Nakajima

This past summer I joined a few friends for a collecting trip around Northern California.  I was not planning to collect any stones for myself but was there to enjoy time with friends and to help guide the group to collecting locations. One of the stops was, of course, a place on the Klamath River, deep in the Klamath Mountains of Northern California, where Mas and I loved to collect.

I chose a beautiful spot with a view of the river and scattered some of Mas’ ashes. Almost immediately I looked down, and found a very beautiful little stone, which reminded me of the one from Mr. Hirotsu.

Our good friends Tan-Phat Vo and Lisa Vole were also along on the trip. Phat had learned from Mas the craft of carving daiza and we had all spent much time over the years discussing the art and spirit of suiseki. At lunch I handed my little stone to Phat and asked him if he thought he could make a daiza for it, to which request he very generously agreed.

Recently Phat and Lisa paid a visit to California and brought me the finished suiseki. I had forgotten how beautiful the stone was – and now, finished as a suiseki in Phat’s exquisite daiza, it is sublime.

“Gateway to Zen” (“Cửa Thiền”); 4″ x 2″ x 5″; Tan-Phat Vo
“Gateway to Zen” (“Cửa Thiền”); 4″ x 2″ x 5″; Tan-Phat Vo

It gives me such joy to live with this trinity of stones from Mas, his teacher, and his student. I can only hope that someday I too will be able to glimpse that spiritual realm to which these suiseki lead.

Source: https://suisekiart.com/2022/01/15/pathway-to-zen/

Lối Thiền
Janet Roth
Võ Tấn Phát dịch

Tôi đã viết về viên thủy thạch Mas được vị thầy là ông Hirotsu tặng. Đó không phải là một viên thủy thạch gây chú ý ngay tức khắc, mà cần một sự suy tư lâu dài trong tĩnh lặng mới thưởng nghiệm được. Theo đó, Mas kể rằng anh không hề hiểu được hòn đá khi ông Hirotsu đem tặng. Phải qua nhiều năm sau Mas mới hiểu ra vị thầy Hirotsu đã gắng dẫn dắt anh, thông qua thủy thạch, vào thế giới Thiền.

Dĩ nhiên Mas cũng thích những viên đá nhiều kịch tính và thậm chí đôi khi một số đá sặc sỡ nữa, nhưng chính những hòn thủy thạch yên tĩnh, nhẹ nhàng, sâu lắng thấm vào tâm hồn mới thực sự thu hút Mas. Điều này có thể cảm nhận được từ viên đá Mas đặt tên là “Đạt Ma”. Giống như viên đá của ông Hirotsu, nó có những chiều sâu thẳm chờ ta khám phá.

Mùa hè vừa rồi tôi cùng với vài người bạn đi tìm đá ở Bắc California. Tôi không dự tính sẽ tìm đá cho mình mà chỉ đi chung vui với bạn hữu và hướng dẫn họ tới các nơi tìm đá. Một trong các điểm dừng, dĩ nhiên là một bãi đá trên sông Klamath, nằm sâu trong rừng núi Klamath ở California, một chỗ tìm đá mà Mas và tôi yêu thích.

Tôi chọn một chỗ phong cảnh tuyệt đẹp nhìn xuống dòng sông, và rải một ít tro cốt của Mas. Gần như ngay lập tức tôi nhìn xuống và thấy một viên đá nhỏ và tuyệt, làm tôi nhớ ngay đến viên đá của ông Hirotsu.

Hai người bạn thân Phát và Trang cũng đi cùng chuyến tìm đá này. Phát học cách làm đế của Mas và qua nhiều năm tháng chúng tôi đã thảo luận về nghệ thuật và tinh tuý của môn thủy thạch. Vào lúc ăn trưa tôi đem hòn đá nhỏ ra và hỏi thử Phát có thể làm cái đế gỗ cho hòn đá không, thì anh chàng vui vẻ đồng ý.

Mới đây Phát và Trang đến California và đem đến viên thủy thạch hoàn tất. Tôi đã quên mất vẻ đẹp của viên đá — giờ đây đã thành một viên thủy thạch hoàn hảo với cái đế gỗ thanh tú do Phát làm, nó trông tuyệt hảo.

Khó nói hết được niềm vui của tôi khi ngắm nhìn bộ ba viên thủy thạch này, một viên của người thầy của Mas, một viên của Mas, và một viên từ người học trò của Mas. Tôi chỉ có thể ước mong rằng sẽ có ngày tôi chạm đến chốn tinh thần mà những hòn thủy thạch này dẫn dắt ta vào.

Plum Blossoms

Plum Blossoms
Phat Vo

We were born in the tropical part of the country of Vietnam and grew up with images of “yellow plum blossoms,” Ochna integerrima, or “mai” in Vietnamese, every lunar New Year. In school we learned of many poems involving plum blossoms. Little did we know that the plum in ancient East Asian literature is of a different type, Prunus mume.

Plum, or mei in Chinese (ume in Japanese, or mai in Vietnamese) was loved by the literati class since ancient times. But it was not until the Song Dynasty that plum was the plant front and center in philosophy, art, and literature. The neo-Confucian philosopher, Zhu Xi, associated plum tree with four virtues of heaven. The hermit, Lin Bu, called plum his soul mate, and his poem on plum ever since has been considered the best on plum blossoms in Chinese literature. The Zen monk, Shi Zhongren, invented the ink wash painting of plum blossoms on silk. The great literati, Su Shi, praised plum blossoms with phrases like “Bones of Jade, Soul of Ice”. The poet, Lu Yu, wished to transform his body into a million incarnations, each under a plum tree to appreciate it fully. The list goes on and on.

Later this love of plum blossoms has been transmitted to other countries in East Asia. In Japan the use of plum blossoms in art had grown strong among the Zen circles. Eihei Dogen wrote a lively treaty on plum blossoms. Ikkyu Sojun, Hakuin Ekaku, Ryōkan Taigu, Matsuo Basho and Sesshu Toyo contemplated over life with poems about plum blossoms or paintings of plum blossoms.

Plum - kitchen

Plum - tea, wine

As we love Japanese culture, and especially as we are into suiseki art, we naturally love plum blossoms. Plum blossom images are everywhere in our kitchen utensils. Plum trees and blossoms are in our sake containers, tea pots, tea bowls, and tea cups. We have ranma (transoms) with plums. We have a few woodblock prints with plum blossoms and bush warblers. We enjoy suiseki with images of plum blossoms from suiseki club members, and wish some day to find a beautiful plum imaged suiseki. And the funny thing was that we had never seen real plum blossoms.

In February 2020 we planned to go to Japan to see the suiseki exhibition and later to experience some plum blossom festivals in Kyoto. The trip was canceled due to COVID-19. We then used our saved vacation in 2020 and 2021 to travel in the USA to find stones, and unexpectedly we found some beautiful ume suiseki. Was it karma?

Ume and Uguisu (Plum and warbler)
Ume and Uguisu (Plum and warbler) WxHxD 8×4.5×4 in

In January 2022 we overheard that plum trees were blooming at The Huntington Library; we arranged with Jim Greaves to meet with him there to view the plum blossoms, first time for us, and to see Jim’s wonderful suiseki collection at The Huntington. Our excitement spread to Jim. Later that day we came over and stayed overnight at Jim’s house. There in his Japanese tea room under the dim light we enjoyed one of the best suiseki, collected years ago on the Merced River by Jim’s deceased wife Alice, named “Ume over Lake Biwa.” That was a perfect weekend.

Huntington Library- Jim and Phat
Huntington Library- Jim and Phat
Huntington Library - Lisa and Phat
Huntington Library – Lisa and Phat
Huntington Library, Japanese Garden - Plum
Huntington Library, Japanese Garden – Plum
Huntington Library, Japanese Garden - Plum Blossoms
Huntington Library, Japanese Garden – Plum Blossoms
Alice Greaves, “Ume over Lake Biwa”, Merced River
Alice Greaves, “Ume over Lake Biwa”, Merced River

Nowadays mei is everywhere. Its image becomes an object of kitschy conformity. But it need not be so. The culture of East Asia has long loved mei for its beauty and admired mei for its spirit. Mei often associates with men of conscience of their day, who could not remain silent before the injustices of the world, who gave honest assessments to the Emperors or their superiors, who were seldom listened to, often punished, sometimes with death. But even so, these gentlemen found solace in mei: its flowers might be destroyed by snow or rain, but the fragrance lingered long afterwards. In this land while we enjoy the beauty and fragrance of mei, our minds could not but recall the spirits of these noblemen of the past, while our hearts go out to the men and women of conscience of today.

Source: http://aisekikai.com/resources/February+newsletter+22.pdf

Trang and Phat, “Ume” (Plum Blossoms) WxHxD 6×4.5×4.5 in
Trang and Phat, “Ume” (Plum Blossoms) WxHxD 6×4.5×4.5 in


Mai

Võ Tấn Phát

Chúng tôi sinh ra ở xứ nóng miền Nam Việt Nam, và khi lớn lên Tết nào cũng thấy mai vàng, tên khoa học là Ochna Integerrima. Trong trường học chúng tôi đọc nhiều bài thơ về mai, mà không hề biết mai trong thơ văn cổ điển Đông Á là loài mai khác, tên khoa học là Prunus Mume.

Mai — tiếng Trung Hoa là mei, tiếng Nhật là ume, tiếng Anh là plum, hay đôi khi là apricot — được giới văn nhân Trung Hoa yêu thích từ xa xưa. Nhưng phải đến thời Tống, mai mới đứng đầu các loài thảo mộc trong triết học, nghệ thuật, và thơ văn. Nhà triết học Tống Nho, Chu Hi, cho rằng mai có bốn đức lớn của trời đất. Vị ẩn sĩ Lâm Bô coi mai là vợ, và bài thơ của ông vẫn được coi là bài thơ vịnh mai hay nhất trong văn chương Trung Hoa. Thiền sư Thích Trọng Nhân khởi đầu môn vẽ mai bằng thủy mặc trên lụa. Đại văn hào Tô Thức đã tôn sùng mai bằng những câu như “Xương ngọc, hồn băng”. Nhà thơ Lục Du ước gì thân mình được hoá thành trăm nghìn mảnh để mỗi mảnh nằm dưới mỗi gốc mai. Danh sách đó kéo dài vô hạn.

Tình yêu mai sau đó đã lan sang các nước Đông Á khác. Ở Nhật Bản hình ảnh hoa mai bàng bạc khắp chốn Thiền môn. Vĩnh Bình Đạo Nguyên viết một bài pháp ngữ sống động về hoa mai. Nhất Hưu Tông Thuần, Bạch Ẩn Huệ Hạc, Lương Khoan Đại Ngu, Tùng Vĩ Ba Tiêu, Tuyết Chu Đẳng Dương suy ngẫm về nhân sinh qua thơ văn về mai hay họa phẩm vẽ mai.

Vì chúng tôi yêu văn hoá Nhật, và nhất là vì chúng tôi mê đắm nghệ thuật thủy thạch, lẽ tự nhiên là chúng tôi yêu mai. Hình ảnh mai có khắp nơi trên các vật dụng trong nhà bếp. Mai cũng có cùng khắp trên bình rượu, bát trà, bình trà, chén uống trà. Nhà chúng tôi trang trí bằng khung cửa sổ gỗ của Nhật khắc hình mai. Chúng tôi mua những bức tranh khắc gỗ có hoa mai và chim oanh. Chúng tôi yêu thích những hòn thủy thạch hình mai của những thành viên của các hội thủy thạch, và ước một ngày nào đó tìm được một hòn thủy thạch hình mai. Điều nực cười là chúng tôi chưa hề thấy mai thật ngoài đời.

Vào tháng hai năm 2020 chúng tôi đã chuẩn bị tất cả mọi thứ để du lịch Nhật Bản, đến tham quan cuộc triển lãm thủy thạch quan trọng, rồi đến Kyoto tham dự các hội hoa mai. Chuyến đi bị hủy bỏ vì COVID-19. Trong hai năm 2020 và 2021 chúng tôi để dành những ngày nghỉ phép để đi dạo khắp nước Mỹ tìm đá. Rồi bất ngờ chúng tôi tìm được vài hòn thủy thạch hình mai rất tuyệt. Có duyên nợ gì nhau chăng?

Tháng giêng năm 2022 chúng tôi đọc được tin ở Huntington Library hoa mai đang nở ở vườn Trung Hoa và vườn Nhật, nên chúng tôi sắp xếp với ông Jim Greaves gặp nhau để ngắm hoa, là lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy hoa mai, và sẵn dịp thưởng thức bộ sưu tập thủy thạch của ông ở đó. Sự hào hứng của chúng tôi cũng lây sang Jim. Tối đó chúng tôi đến nghỉ lại nhà của Jim. Trong căn trà thất kiểu Nhật, dưới ánh sáng mờ ảo, chúng tôi được thưởng ngoạn một trong những viên thủy thạch đẹp nhất, “Mai trên Hồ Tỳ Bà”, do người vợ quá cố Alice của ông tìm thấy nhiều năm trước trên sông Merced. Một kỷ niệm cuối tuần tuyệt hảo!

Hôm nay mai có mặt khắp nơi. Hình ảnh mai trở thành thời thượng sếnh sáo. Nhưng mai đâu phải thế. Nền văn hoá Đông Á từ xưa đã yêu mai vì đẹp và kính mai vì thần. Mai thường đồng hành với những bậc quân tử gánh vác lương tâm thời đại của họ, những người không thể lặng thinh trước bất công của thế gian, dám cất lời trung nghĩa với Hoàng đế hay với quan trên, ít được lắng nghe, thường bị trừng phạt, đôi khi bị xử chết. Nhưng dù vậy, họ vẫn tìm được niềm an ủi ở mai: dù hoa mai có bị vùi dập tan nát trong mưa bão tuyết giá, hương mai vẫn lưu mãi về sau. Ở chốn này khi chúng ta vui hưởng vẻ đẹp và hương thơm của mai, trí ta không khỏi nhớ lại khí phách của những bậc trượng phu của quá khứ, tâm ta không khỏi hướng về những tù nhân lương tâm của hôm nay.

Nguồn: http://aisekikai.com/resources/February+newsletter+22.pdf

Đá — Chân Văn

416B2A71-0C48-4412-B405-7329F599A691
Đá
Chân Văn
(Đỗ Quý Toàn/Ngô Nhân Dụng)

Ở Vườn Nai có các thầy, các cô rất dễ thương. Xe đến nơi, bước lên sườn đồi, nhìn thấy khuôn mặt một sư cô, một sư chú thôi, là tự nhiên hai lá phổi mình tự động hít một hơi dài sung sướng. Thế là quên hết những gió bụi dọc đường. Gặp một người quen, chắp tay búp sen, mỉm cười; chẳng cần nói một câu, trong giây lát trao đổi nhau biết bao nhiêu niềm thân thiết.

Thế nhưng mà (phải xin quý thầy, quý cô ở Vườn Nai tha lỗi), mỗi lần trên đường tới Vườn Nai, trong lòng tôi nôn nao một niềm vui nho nhỏ. Muốn quên nó đi không được, cứ dìm nó xuống lâu lâu nó lại ngoi lên. Đó là cái cảm giác hạnh phúc biết mình sắp được gặp các tảng đá. Khi xe leo lên dốc quanh sườn đồi, miệng mở ra nhoẻn những nụ cười đầu tiên, là lúc nhìn thấy mặt các anh chị đá xếp hàng hai bên đường, như những người bạn cũ chung thủy. Mà cứ y như rằng, hễ mình mỉm miệng cười thì các anh các chị đá cũng cười theo đáp lễ. Còn như nếu mình mải nói chuyện quên không cười chào thì các anh chị đá vẫn bình tĩnh trầm ngâm, không một lời hờn trách bao giờ!

Có lần đi lang thang trong tu viện, qua xóm Vững Chãi, qua các dãy nhà tạm trú của các thiền sinh, đi sâu vào phía trong, sau những mảnh kiếng thu điện mặt trời, theo con đường mòn xuống thung lũng, tôi gặp một tảng đá thật lớn, cao quá đầu người, bề mặt phẳng gần bằng một cái chiếu vuông. Đây rồi! Đứng lại, chắp tay chào, nhìn tảng đá mà thở một hơi dài, không khí núi ngập đầy hai lá phổi! Tảng đá này chắc phải là anh, chị em ruột với một tảng đá ở Làng Cây Phong mà tôi vẫn đến chào mỗi khi về Làng. Leo lên trên mặt bằng phẳng, tôi cũng ngồi xuống, xếp hai chân lại, thẳng lưng lên, sung sướng được thở ra thở vào cùng với đá. Một vài lần như vậy, tới một bữa tôi liếc nhìn sang phiến đá bên cạnh, chợt thấy một cái tọa cụ có ai đã cất dưới chùm lá cây. Tọa cụ được giấu kín dưới khe đá để che cho khỏi ướt nếu trời mưa! Thật là vui, khi biết có thêm người đã ngồi trên tảng đá này! Chắc một thầy, hay một sư cô nào đó đã tới đây xin kết bạn thân với anh, chị Đá này nhiều lần trước. Chắc từ lâu rồi, người bạn đá ấy đã tới đây ngồi nhiều lần cho nên mới đem cả tọa cụ tới cất một chỗ! Khi đứng dậy chắp tay vái chào từ giã anh Đá, tôi cũng gửi một lời chào cho người bạn đá ấy – mà tới giờ tôi chưa biết là ai, hay là những ai!

Không biết tu đến kiếp nào mình mới buông bỏ được tấm lòng yêu đá. Tình yêu, như chúng ta thường bảo nhau, chẳng ai biết nó là thế nào! Đó là một tâm trạng rất khó phân tách rõ ngọn nguồn. Chỉ biết, không gặp mặt thì nhớ, chờ nhau lòng khấp khởi, trông thấy nhau thì hớn hở vui mừng. Gặp nhau không ai nói với ai một lời, nhưng biết bao nhiêu nỗi niềm được truyền qua lại, không thể định nghĩa đó là những nỗi niềm gì. Từ nhỏ chúng ta đã trải qua những kinh nghiệm như thế. Đối với một người bạn cùng xóm, một thầy giáo, một cô giáo, hoặc ông chú, bà cô nào đó. Đến tuổi dậy thì tâm trạng đó càng hay xãy ra. Ai chưa yêu thì không thể nào hiểu được. Người yêu đá cũng vậy. Ngồi quán chiếu về đá, về tình yêu mình đối với đá, về lẽ vô thường của vạn hữu, về lịch sử trái đất, lịch sử địa chất, cả lịch sử thành hình vũ trụ. Cứ như thế hết lần này sang lần khác, cũng khó hiểu được tại sao mình bị lòng yêu đá ràng buộc đến như thế. Không hiểu rõ nguồn cơn, thì chưa biết làm sao để mà rũ bỏ.

Cho nên, xin quý vị hãy coi đây là một bài sám hối. Hoặc nói như anh chị em tin thờ Chúa, đây là những lời ăn ăn xưng tội, confessions. Tôi yêu đá. Yêu chưa thể nào bỏ được. Phải tới rặng Rocky Mountains ở Alberta, Canada. Đứng đó mà nhìn lên, chiếm đầy cả bầu trời chỉ toàn là đá. Phải tới Vân Nam, nhìn những bức đại tự chính tay đá vẽ trên vách núi nét bút thảo lượn phơi phới như rồng bay. Phải thức dậy ở Làng Cây Phong sau một đêm mưa tuyết, nhìn xuống vườn thấy những tảng đá hôm qua đã biến mất, chỉ còn những gò tuyết trắng êm như nhung! Đá, ở dưới lớp tuyết âu yếm che giấu đó là đá! Ở bên làng, có lúc người ngồi yên trên tảng đá giữa rừng, đàn nai thản nhiên đi qua không sợ hãi, nghĩ con người cũng hiền như tảng đá. Phải nằm soải trên nền đá ấm áp một buổi trưa mùa Thu, nhìn lên những hàng lá đổi màu. Phải lượm một hòn sỏi trong khe suối, hay trên bãi biển, đưa lên nhìn không chán mắt, không nỡ rời tay. Có những lúc nhìn thấy đá, bỗng ngây người, tự biết mình si ngốc mà không bỏ được, không hiểu vì sao. Đó là tình yêu.

Đến Vườn Nai, nhìn chung quanh đầy bè bạn, bát ngát, trùng trùng, lố nhố, trên ngó xuống dưới ngó lên, đàn đúm với nhau những đá là đá! Hỏi không dao động trong lòng sao được?

Ở Vườn Nai có những trường thành đá xếp hàng trên lưng dãy núi cao tuốt luốt, trông xa như đám trẻ em nối đuôi nhau lom khom chơi trò Rồng Rắn, em này đặt tay trên lưng em kia, vừa bước đi vừa hát nhịp nhàng. Có những tảng cao ngất trời tụm năm, tụm bảy lưng chừng non, như mấy người bạn vừa ngồi ngắm cảnh vừa trò chuyện cùng nhau. Những tảng đá hùng vĩ trên đỉnh cao đứng thản nhiên nhìn xuống đám chúng sinh dưới chân đồi bước chân theo nhau thiền hành. Người đang bước chân đi, qua một khúc rẽ, bỗng đứng sững lại, ngẩn người, vì trước mắt hiện ra một khuôn mặt đá rạng ngời! Có những bức vách đá sừng sững, phơi mặt với gió sương trên lưng chừng núi qua bao nhiêu triệu năm trông như có người đã phạc thành một bức tường, phơi một mặt đá xám như trang giấy chờ họa sư tới đưa tay, đưa một đường tuyệt bút. Nhìn kỹ thì thấy chẳng cần ai đem bút tới vẽ vời làm chi. Chính những đường gân trên mặt đá, ánh sáng chiếu vào, đang lung linh hiện lên những thư pháp nhiệm mầu!

Cả những hòn đá cuội nằm rải hai bên đường, cũng đầy tình ý. Có người nhặt đá nắm trên tay âu yếm. Hình như óc chiếm hữu chưa bỏ được, đem về nhà rồi cũng không biết bầy đâu cho hết. Ngày xưa bên Tàu có ông Ngưu Tăng Nhụ (Niu Seng Ju, 779 – 847, đời Đường) được mô tả là người “yêu đá như yêu con cháu, cung kính với đá như đối với bạn bè.” Nhưng ông cũng quý đá như bảo ngọc. Nói đến châu ngọc, không khỏi dấy lên lòng chiếm hữu. Nhiều anh chị em đi qua Vườn Nai đã xếp các hòn đá cuội lại như muốn gửi những thông điệp cho chính mình hay cho người một kiếp sau nào sẽ đi qua. Vẫn muốn sử dụng đá như những phương tiện truyền đạt không lời.

Nhưng mà khi chúng ta đứng đối diện, nhìn tận mặt một tảng đá đứng hay ngồi tĩnh tọa bên đường, lúc đó mới là lúc người cùng đá giao cảm với nhau với tấm lòng mở rộng, bình đẳng, thấm sâu và bền chặt nhất. Mình nhìn đá, đá nhìn mình. Mình mỉm cười, đá nháy mắt. Mình không cần nói một câu, đá hiểu hết. Mình chắp tay, cúi đầu vái đá. Đá lặng thinh, coi như mình đang vái một cõi vô thường.

Tôi không nhớ mình đã có thói quen vái chào các tảng đá tự năm nào, ba hay bốn chục năm trước. Nhưng gần đây càng ngày thói quen càng nặng, gặp đá là cúi đầu thi lễ. Đứng chụm hai chân, thẳng lưng, nhìn đá như là đá, chắp hay bàn tay lại, cung kính nghiêng mình. Bởi vì không biết cách diễn tả nào khác. Mình không thể nói với đá được, vì đá không có tai nghe. Ôm đá cũng là một hành động dễ thương, nhưng đá không thể đáp lại đưa hai tay ôm mình để đáp lễ được. Yêu ai mình không nên đặt người ta vào một hoàn cảnh bố rối như thế. Cho nên, cứ cúi chào nhau, nghiêng mình một lúc lâu, trong giây phút đó những tâm tình được truyền qua lại, biết không thể truyền bằng lời nói được.

Có lẽ lần đầu tôi cúi chào đá là do ảnh hưởng của bốn chữ “bái thạch vi huynh,” nghĩa là người lạy đá, để kết nghĩa nhận đá làm anh. Trước khi Phan Bội Châu viết bài phú mang tên đó, bài này rất nổi tiếng, thì nhiều nhà văn bên Trung Hoa đã hành động như thế rồi. Một người nổi tiếng nhất là ông Thẩm Quát, vào thế kỷ 11. Một lần tôi hỏi ông Tạ Trọng Hiệp, một nhà thư tịch học uyên thâm, về điển tích“bái thạch vi huynh,” không ngờ ông về nhà viết cho một lá thư dài cho biết những ai đã làm công việc đó. Không ngờ thói quen này đã được truyền thụ qua nhiều đời như thế!

Thói quen gặp đá cúi chào tôi đã nhiễm từ mấy chục năm nay, nhưng gần đây tôi hay vái chào hơn, và chào một cách chân thành, kính cẩn, thấm thía hơn, cũng nhờ ảnh hưởng của Anica.

Năm Anica chưa đầy một tuổi thì cha mẹ cháu từ Mỹ sang Thái Lan làm việc. Cháu lớn lên với các chị giữ em người Thái, đến vườn trẻ chơi với trẻ con Thái, được các sinh viên học trò của bố mẹ bồng bế. Cháu học được thói quen nghiêng mình vái lạy mỗi khi đi qua trước bàn thờ Bụt; mà ở Thái Lan thì mỗi ngã tư lại thấy một bàn thờ. Cháu học được tiếng “Vái,” một tiếng Thái Lan giống tiếng Việt.

Một lần về California thăm ông bà ngoại, lúc lên 3 tuổi, Anica ở ngoài sân chơi tha thẩn với mấy khóm hoa trong vườn. Cháu đưa tay xoa trên mấy bông hoa lavender (tiếng Việt gọi là hoa oải hương), rồi bước tới đưa hai tay cho ông ngoại ngửi mùi thơm. Cháu vuốt, vuốt mấy chùm hoa tím mỏng manh nhoi lên từ mặt đất, cao ngang tầm tay cháu, như vuốt má một em bé. Bỗng nhiên có lúc cháu ngưng tay vuốt hoa; cháu chắp hai tay lại và nghiêng mình rất sâu, vái lạy mấy bông hoa.

“Anica! Tại sao Anica vái bông hoa?”

Anica quay nhìn ông ngoại, miệng trả lời ngay không cần suy nghĩ, bằng tiếng Anh: “Because, it’s beautiful!” (Bởi vì hoa đẹp quá!)

Chúng ta đâu có cách nào nói cho một bông hoa hiểu, rằng, “Hoa ơi, bạn đẹp quá!” Hoặc “Bác Hoa ơi, bác đẹp quá!” hay “Cô Hoa ơi, cô đẹp quá!” Đối với một em bé lên ba chưa biết nói tiếng người đầy đủ, làm sao diễn tả được tấm lòng yêu mến, hâm mộ nức lên trong lòng? Làm sao xin kết bạn được với bông hoa? Không ai dậy cháu cách diễn tả nào khác. Anica đã chắp tay vái; như vẫn vái Bụt.

Kể từ khi học Anica, tôi đã thay đổi những lần tôi vái chào các tảng đá. Trước kia, tôi chào tảng đá như một người anh, một người mình kính trọng nhưng không dám gần gũi thân mật quá, sợ gần gũi quá thì thiếu niềm tôn kính. Tôi đoán các cụ đời xưa như Thẩm Quát hoặc Phan Bội Châu “bái thạch vi huynh” cũng mang cùng một thái độ cung kính mà xa cách như thế.

Nhưng cháu Anica đã dậy tôi sống với thái độ mới. Chúng ta có thể vái chào bông hoa, vái chào tảng đá, giống như mình vái Bụt. Bụt ở trong mình, mình ở trong Bụt. Đá ở trong mình, mình cũng trong đá, hai bên cảm ứng với nhau. Cảm ứng đó phải được thực tập nhiều lần một kinh nghiệm sống, sống một cách tự nhiên, để cho lòng mình thật sự cung kính, chuyên tâm chú ý cúi đầu vái lạy. Cảm ứng đó cũng không thể suy nghĩ, không thể thảo luận hay giải thích được.

Khi nói đến đá chúng ta tưởng đó là tiêu biểu của sự trường tồn. Nhiều người vẫn chỉ đá, chỉ sông nước mà thề nguyền với nhau, coi như không bao giờ thay đổi! Ông Thẩm Quát (1031 – 1095, đời Tống) lạy đá nhận làm anh; nhưng ông cũng nghiên cứu đá như một nhà địa chất học. Nhờ thế đã nhìn thấu trong đá thấy lẽ vô thường.

Thẩm Quát là một người bác văn quảng kiến, người đầu tiên viết về đặc tính kim nam châm làm la bàn (trong sách Mộng Khê Bút Đàm in năm 1088, 100 năm trước cuốn sách De naturis rerum và De ustensilibus của Alexander Neckam ở Âu châu bàn về chuyện này).

Nhờ quan sát ông khám phá ra sao Bắc Đẩu không phải là phương Bắc “thật” theo từ tính của kim nam châm. Ông là người đứng đầu viện thiên văn tại triều đình, bỏ 5 năm nghiên cứu quan sát, ghi chép chuyển động của mặt trăng trước khi bị triều đình xóa bỏ hết công trình. Ông thật là một “người thời Phục Hưng’ mấy trăm năm trước thời Phục Hưng ở Âu châu, vừa là một nhà toán học, một nhà phát minh, một thi sĩ, một người tham thiền, nghiên cứu y học và dược tính cây cỏ; có lúc lại làm bộ trưởng tài chánh, làm tổng thanh tra trong chính phủ, trước khi bị tước bỏ hết chức tước vì theo phái cải cách Vương An Thạch.

Những người yêu đá chú ý đến Thẩm Quát vì ông “lạy đá gọi bằng anh”. Nhưng cũng còn vì ông đã nêu ra những giả thuyết về sự biến chuyển hình thái đất đá (geomorphology). Năm 1074 đi thăm rặng núi Thái Hàng (phân chia hai vùng Sơn Đông và Sơn Tây bên Tầu), ông thấy trên núi có những vỏ sò hóa thạch mặc dù ngọn núi ở cách xa biển mấy trăm cây số; ông đưa ra giả thiết vùng này trước kia phải là bãi biển. Ông cũng khám phá những cây tre hóa thạch ở một vùng khí hậu lạnh, chung quanh không hề có bóng tre; để đưa ra giả thuyết khí hậu trong thiên hạ từng thay đổi nóng hóa lạnh, lạnh trở thành nóng. Khi quan sát đất bồi ở giữa các dãy núi trong rặng Thái Hàng và trong khe núi Nhạn Đãng (gần Ôn Châu bây giờ) ông nhận thấy những vùng đất phù sa tích lũy biết bao đời trước sau đó đã bị soi mòn trải qua nhiều thời đại kế tiếp, để lại các tảng đá hình dung cổ quái, chứng tỏ mặt đất đã thay đổi với thời gian, khi lên khi xuống. Trên mặt đất, trong núi non vững như thế mà cũng là những cuộc bể dâu chẳng có gì thường tồn cả.

Một người chứng kiến và suy ngẫm về lẽ vô thường một cách sâu xa như thế, lại là người đã bái thạch vi huynh!

Cho nên, khi nghiêng mình vái chào các ông anh bà chị đá của chúng ta trong Tu viện Vườn Nai, chúng ta lâu lâu có dịp nhắc nhở cùng nhau: Các anh, các chị đá ơi, chẳng ai thường tồn đâu, lũ chúng ta đều như vậy cả.

Những ai đã qua Vườn Nai trong 10 năm qua thì chắc ghi nhận bên phải đường leo trên lối vào có hình ảnh một tảng đã đã vỡ làm đôi. Mấy năm đầu còn trông thấy một tảng đá gần như nguyên con, bị nứt ở giữa, hé ra một khe nhỏ hình chữ V nhỏ, rồi mỗi năm kẽ đá vỡ lại tách rộng thêm ra. Thế rồi kẽ nứt mở rộng thêm, hai mảng nghiêng qua hai phía, vẽ thành một chữ V lớn, càng ngày càng rộng. Chắc sẽ có ngày hai tảng đá mới mới tìm được thế thăng bằng, ngưng không nghiêng thêm nữa. Hay là sẽ có ngày một tảng, hoặc cả hai tảng, cùng sụp đổ và nằm xuống?

Bao nhiêu tảng đá khác ở các sườn núi, trong thung lũng Vườn Nai, cũng đang nhúc nhích như thế? Đá di động, đá nhích từng bước. Mặt đất lâu lâu lại rùng mình. Cả trái đất đêm ngày cựa quậy. Gió, cát, hơi nước cũng lưu chuyển tuần hoàn. Nếu mắt chúng ta có khả năng nhìn được phong cảnh đó biến chuyển suốt một trăm triệu năm, một tỷ năm, chắc chúng ta sẽ thấy chung quanh ta là một vũ khúc! Vũ điệu của đá, cũng giống như các điệu múa của loài người, đều biểu diễn tính vô thường. Vũ công không thể đứng yên bất động. Vũ điệu là cái gì diễn ra giữa hai vị trí của bàn chân, giữa hai vị trí của một cánh tay. Nhưng nó chính là chuyển động, hay nó là khoảng trống giữa hai chuyển động? Hay là cả hai? Hoặc không là gì cả? Múa là nghệ thuật của vô thường. Giống như khi Thẩm Quát nhìn rặng núi Thái Hàng mà thấy những biến hóa địa chất kéo dài hàng trăm triệu năm, chúng ta có thể nhìn các tảng đá giang tay nhau quây quần ở bốn phía Vườn Nai mà nghiệm thấy hình ảnh mặt đất đã thay đổi suốt những thế kỷ qua như thế nào, trước khi loài người có mặt trên trái đất. Những tảng đá đứng lặng yên kia thực sự đã tham dự vào một điệu múa muôn đời của vũ trụ. Ngay bây giờ đá vẫn còn đang múa lượn!

Nguồn: https://langmai.org/dai-may-tim/van/cau-van-cua-long-truoc-2014/da/

“Klamath Forest” — Janet Roth

3657CAF2-CA8C-4541-8AD6-F4A9B0C94F22
“Klamath Forest”

Janet Roth

I found this stone at Black Butte Lake on one of our early trips together with Mas Nakajima. I was sitting down on the rocks and looking at the stones around me and saw this one. It was simply sitting upright on the surface next to me as if waiting to be found. I called Mas over to look, and he went very quiet. Finally, he said, “I’ve been looking my entire life for this stone.” His love for the stone shows in the daiza, which he carved to firmly and gently cradle it while ensuring its best qualities were revealed. This stone does not have big flashy features demanding one’s attention, but this beautiful, quiet suiseki constantly reveals new depths to me over the years. As Mas would say, “you never get tired.”

This stone is 30.5 x 12.7 x 13.3 cm (12 x 5 x 5.25 inches). Photo: Sam Edge

Source: https://www.vsana.org/som-2021-05

“Rừng Klamath”
Janet Roth
Võ Tấn Phát dịch

Tôi tìm thấy viên đá này ở Hồ Black Butte trong một chuyến đi tìm đá chung đầu tiên với Mas Nakajima. Tôi ngồi xuống bãi đá, nhìn đá xung quanh tôi, và thấy viên đá này. Nó nằm trên mặt đất gần tôi, khoe phía đẹp nhất ra, cứ như chờ đợi được tìm thấy. Tôi gọi Mas lại nhìn viên đá và anh bỗng im lặng hẳn. Cuối cùng Mas nói: “Cả đời tôi cố gắng tìm một viên đá thế này.” Lòng yêu thích viên đá này được Mas thể hiện ở cái đế gỗ, mà anh đã chạm khắc để cái đế ôm lấy viên đá vừa vững chãi vừa thanh thoát, trong khi phô bày ra những phẩm chất đẹp nhất của viên đá. Viên đá này không có những đặc điểm hào nhoáng khiến ta chú ý ngay lập tức, nhưng viên thủy thạch yên tĩnh, xinh đẹp này cứ tiếp tục bộc lộ độ sâu lắng mới mẻ cho tôi thấy qua năm tháng. Như Mas thường nói: “mình không bao giờ thấy chán.”

Kích thước hòn đá này 30.5 x 12.7 x 13.3 cm (12 x 5 x 5.25 inches). Ảnh: Sam Edge

Wabi-sabi

95789890-AD27-4881-AEA1-45364EFF330D
“Wabi-sabi,” Mas Nakajima and Janet Roth’s suiseki collection, photo by Mas Nakajima

“Wabi-sabi is a beauty of things imperfect, impermanent, and incomplete.
It is a beauty of things modest and humble.
It is a beauty of things unconventional.”

“Wabi-sabi is not found in nature at moments of bloom and lushness, but at moments of inception or subsiding. Wabi-sabi is not about gorgeous flowers, majestic trees or bold landscapes. Wabi-sabi is about the minor and the hidden, the tentative and the ephemeral: things so subtle and evanescent they are invisible to vulgar eyes.”

Source: Leonard Koren, Wabi-Sabi for Artists, Designers, Poets and Philosophers

AA823734-81E7-4894-BFB2-6B7399F382C3

Suiseki named “Wabi-Sabi” from Klamath River, California, in Mas Nakajima and Janet Roth’s collection.

Picture source: https://jtroth.smugmug.com/San-Francisco-Suiseki-Kai/Exhibits/SFSK-2016-Exhibit/i-Xrjc5tJ/A

—————

“Wabi-sabi là vẻ đẹp của những thứ không hoàn hảo, vô thường, và bất toàn.
Đó là vẻ đẹp của những thứ bình dị và khiêm nhường.
Đó là vẻ đẹp của những thứ phi truyền thống.”

“Wabi-sabi không thể tìm thấy trong thiên nhiên ngay lúc nở rộ hay xanh tốt, mà vào lúc khởi mầm hay khi đã lắng dịu xuống. Wabi-sabi không phải là vẻ đẹp của một đóa hoa rực rỡ, một thân cây oai phong hay một phong cảnh kỳ vĩ. Wabi-sabi là về cái nhỏ bé và cái bí ẩn, cái bất định và cái vô thường: những thứ quá tinh tế và phù du không thể nhìn thấy bằng mắt tục.”

—————

Wabi-sabi – 侘寂 – sá tịch

Ensō

1CFAD43F-94B8-432A-AD6A-C625330073F2
Kern River stone, WxHxD 7x8x4.5 in, Trang and Phat’s suiseki collection, photo by Brent Meran

 

Ensō
Audrey Yoshiko Seo

Zen circles, ensō, are symbols of teaching, reality, enlightenment, and a myriad of things in between. Seemingly perfect in their continuity, balance, and sense of completeness, and yet often irregular in execution, ensō are at once the most fundamentally simple and the most complex shape. They seem to leave little room for variation, and yet in the hands of Zen masters, the varieties of personal expression are endless. Ensō evoke power, dynamism, charm, humor, drama, and stillness.

Source: Audrey Yoshiko Seo, Ensō: Zen Circles of Enlightenment

BEFF69F7-1D26-4D3C-AB91-F79428C1B41D

—————

70DB9378-072B-46EE-A275-D29B80A9BAB4
At San Francisco Suiseki Kai exhibition in Japantown San Francisco on August 3 – 4, 2019. Photo by Brent Meran

 

Ensō (Viên Tương)
Audrey Yoshiko Seo
Võ Tấn Phát dịch

Vòng tròn Thiền, ensō (viên tương), là biểu tượng của truyền dạy, thực tại, giác ngộ, và vô vàn thứ trung gian. Dường như hoàn hảo trong sự liên tục, cân bằng, và tròn vẹn, nhưng thường bất nhất khi thực hiện, những hình ensō ngay tức thì đơn giản nhất mà cũng phức tạp nhất. Chúng có vẻ như không có kẽ hở cho biến tấu, nhưng trong tay của các thiền sư, sự đa dạng trong biểu đạt cá tính là vô tận. Vòng ensō gợi nên sức mạnh, năng động, mê hoặc, hài hước, kịch tính, và tĩnh lặng.

—————

In Zen, ensō (円相 , “circle”) is a circle that is hand-drawn in one or two uninhibited brushstrokes to express a moment when the mind is free to let the body create (from wikipedia.)

Trong Thiền tông, ensō (円相 viên tương) là một vòng tròn vẽ bằng một hoặc hai nét không nghi ngại để biểu lộ khoảng khắc tâm trí được tự do để thân tự sáng tạo.