
Song of Tea
Lu Tong
Translation by Steven D. Owyoung
The sun is as high as a ten-foot measure and five; I am deep asleep.
The general bangs at the gate loud enough to scare the Duke of Chou!
He announces that the Grand Master sends a letter;
the white silk cover is triple-stamped.
Breaking the vermilion seals, I imagine the Grand Master himself
inspecting these three hundred moon-shaped tea cakes.
He heard that within the tea mountain a path was cut at the New Year,
sending insects rising excitedly on the spring wind.
As the emperor waits to taste Yang-hsien tea,
the one hundred plants dare not bloom.
Benevolent breezes intimately embrace pearly tea sprouts,
the early spring coaxing out buds of golden yellow.
Picked fresh, fired till fragrant, then packed and sealed:
tea’s essence and goodness is preserved.
Such venerable tea is meant for princes and nobles;
how did it reach the hut of this mountain hermit?
The brushwood gate is closed against vulgar visitors;
all alone, I don my gauze cap, brewing and tasting the tea.
Clouds of green yielding; unceasingly, the wind blows;
radiantly white, floating tea froth congeals against the bowl.
The first bowl moistens my lips and throat.
The second bowl banishes my loneliness and melancholy.
The third bowl penetrates my withered entrails,
finding nothing except a literary core of five thousand scrolls.
The fourth bowl raises a light perspiration,
casting life’s inequities out through my pores.
The fifth bowl purifies my flesh and bones.
The sixth bowl makes me one with the immortal, feathered spirits.
The seventh bowl I need not drink,
feeling only a pure wind rushing beneath my wings.
Where are the immortal isles of Mount P’englai?
I, Master Jade Stream, wish instead to ride this pure wind back
To the tea mountain where other immortals gather to oversee the land,
protecting the pure, high places from wind and rain.
Yet, how can I bear knowing the bitter fate of the myriad peasants
toiling beneath the tumbled tea cliffs!
I have but to ask Grand Master Meng about them;
whether they can ever regain some peace.
—
The “Song of Tea” is one of the most beloved tea poems known the world over. Its verses on “seven cups” of tea remain as famous today as when written in China over a thousand years ago during the T’ang dynasty (618-906 A.D.). The Song was composed by the Taoist recluse Lu T’ung (775-835 A.D.), a celebrated poet and connoisseur of tea.
Source: http://chadao.blogspot.com/2008/04/lu-tung-and-song-of-tea-taoist-origins_23.html?m=1
—
走筆謝孟諫議寄新茶
日高丈五睡正濃,
軍將打門驚周公。
口云諫議送書信,
白絹斜封三道印。
開緘宛見諫議面,
手閱月團三百片。
聞道新年入山裡,
蟄蟲驚動春風起。
天子須嘗陽羨茶,
百草不敢先開花。
仁風暗結珠琲瓃,
先春抽出黃金芽。
摘鮮焙芳旋封裹,
至精至好且不奢。
至尊之餘合王公,
何事便到山人家。
柴門反關無俗客,
紗帽籠頭自煎喫。
碧雲引風吹不斷,
白花浮光凝碗面。
一碗喉吻潤,
兩碗破孤悶。
三碗搜枯腸,
唯有文字五千卷。
四碗發輕汗,
平生不平事,
盡向毛孔散。
五碗肌骨清,
六碗通仙靈。
七碗喫不得也,
唯覺兩腋習習清風生。
蓬來山,在何處?
玉川子,
乘此清風欲歸去。
山上群仙司下土,
地位清高隔風雨。
安得知百萬億蒼生命,
墮在巔崖受辛苦。
便為諫議問蒼生,
到頭還得蘇息否?
—
Phiên âm Hán-Việt
Tẩu bút tạ Mạnh gián nghị ký tân trà
Nhật cao ngũ trượng thuỵ chính nùng,
Quân tướng khấn môn kinh Châu Công.
Khấu vân Gián Nghị Tống thư tín,
Bạch quyên tà phong tam đạo ấn.
Khai giam uyển kiến Gián Nghị diện,
Thủ duyệt nguyệt đồ tam bách phiến.
Văn đạo tân niên nhập sơn lý,
Côn trùng kinh động xuân phong khởi.
Thiên tử vị thưởng Dương Tiến trà,
Bách thảo bất cảm tiên khai hoa.
Nhân phong ám kết châu bội lôi,
Tiên xuân trừu xuất hoàng kim nha.
Trích tiên bồi phương toàn phong lý,
Chí tình chí hảo thả bất xa.
Chí tôn chí dự hợp vương công,
Hà sự tiện đáo sơn nhân gia.
Sài môn phản quan vô tục khách,
Sa mạo long đầu tự tiễn khuyết.
Bích vân dẫn phong xuy bất đoạn,
Bạch hoa phù quang ngưng oản diện.
Nhất oản hầu vẫn nhuận,
Nhị oản phá cô sầu.
Tam oản sưu khô trường,
Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.
Tứ oản phát khinh hạn,
Bình sinh bất bình sự,
Tận hướng mao khổng tán.
Ngũ oản cơ phu thanh,
Lục oản thông tiên linh.
Thất oản khiết bất đắc dã,
Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh.
Bồng Lai sơn tại hà xứ?
Ngọc Xuyên Tử,
Thừa thử thanh phong dục quy khứ.
Sơn thượng quần tiên ty hạ thổ,
Địa vị thanh cao cách phong vũ.
An đắc tri bách vạn thương sinh mệnh,
Đoạ tại điên nhai thụ tân khổ.
Tiện tùng Gián Nghị vấn thương sinh.
Đáo đầu hoàn đắc tô tức phủ?
—
Dịch nghĩa :
Thư viết nhanh tạ ơn quan gián nghị họ Mạnh gửi trà mới
Lô Đồng
Mặt trời lên cao trượng rưỡi, đang lúc ta ngủ say.
Bỗng quân lính đập cửa làm kinh động Chu công
Nói có thư của quan gián nghị.
Gói lụa trắng có ba dấu niêm phong.
Mở gói như thấy dung mạo ông gián nghị
Tự tay lựa ba trăm lá trà hình trăng non.
Nghe nói đầu năm mới vào tận rừng sâu
Côn trùng kinh động, gió xuân nổi lên
Nhà vua ban cho trà thơm Thường Dương
Trăm loài cỏ không dám nở hoa trước.
Gió lành ngầm kết thành chuỗi ngọc
Trước mùa xuân, nảy mầm non màu vàng pha.
Hái tươi, ướp thơm và gói kỹ
Cực tinh tuý, cực tốt lành mà không xa xỉ.
Ơn thừa của vua, chỉ có ở nơi các vương công
Sao hôm nay lại tới nhà của kẻ nơi rừng rú ?
Khép cổng tre không tiếp khách tục
Đội mũ mão nghiêm chỉnh, tự tay đun nước.
Mây xanh lùa gió thổi không ngớt
Ánh sáng bồng bềnh màu hoa trắng ngưng kết trên mặt chén trà.
Chén thứ nhất trơn miệng thông họng.
Chén thứ hai xua tan sự cô đơn phiền muộn.
Chén thứ ba dốc sạch nỗi lòng
Chỉ còn năm nghìn cuốn sách
Chén thứ tư toát mồ hôi
Mọi nỗi bất bình trong đời thoát hết ra ngoài theo lỗ chân lông.
Chén thứ năm xương thịt đều trong sạch.
Chén thứ sáu thông lên cõi tiên.
Chén thứ bảy không nhấp nổi
Chỉ thấy lớp lớp gió mát sinh ra từ hai bên nách.
Núi Bồng Lai ở đâu ?
Ngọc Xuyên Tử
cưỡi gió này sắp đến đó.
Các vị tiên trên núi xa nơi hạ giới
Địa vị thanh cao cách biệt mưa gió.
Đâu biết trăm vạn muôn số phận chúng sinh
Rơi xuống ngục sâu chịu đau khổ.
Nhân đây xin hỏi quan gián nghị:
Dân chúng có được hưởng sung sướng chăng ?
—
Thư viết nhanh tạ ơn quan gián nghị họ Mạnh gửi trà mới
Lô Đồng
Vũ Thế Ngọc dịch
Trời cao năm trượng vẫn ngủ say,
Quan quân đập cửa khinh động lão Chu.
Rằng quan Gián Nghị có đưa thư,
Lụa trắng còn phong ba đạo ấn.
Mở thư dường như tưởng mặt người,
Chính tay tuyển lựa trà ba trăm phiến.
Nghe rằng năm mới đường núi đóng,
Côn trùng còn sợ gió xuân vừa chớm thổi.
Thiên tử chưa thưởng thức Dương Tiến Trà,
Trăm cây còn chưa dám khai hoa.
Gió hiền hoà ủ ê chồi ngọc,
Đầu xuân ngắt hái những mầm hoàng kim.
Lụa cho tươi sấy cho toàn,
Thật tinh ròng thật tốt lành xa hoa.
Loại trà này hợp với bậc chí tôn vương giả,
Tại sao lại đến tận nhà kẻ sơn nhân?
Cài cửa không tục khách,
Lau chén tự pha trà.
Mây tím theo gió thổi không cùng,
Hoa trắng và ánh sáng bềnh bồng ngưng tụ trên trà.
Chén thứ nhất ướt môi họng,
Chén thứ hai phá cô sầu.
Chén thứ ba tẩy ruột khô,
Chỉ còn văn tự năm ngàn quyển.
Chén thứ tư ứa mồ hôi,
Chuyện bất bình trong đời,
Phát tiết tất cả ra mọi lỗ chân lông.
Chén thứ năm hình hài trong sạch,
Chén thứ sáu thông suốt tới cõi tiên linh.
Chén thứ bẩy chẳng uống đặng,
Chỉ thấy bên vai gió nhẹ nổi.
Núi Bồng Lai xứ nào?
Ngọc Xuyên Tử,
Sẽ cưỡi gió này tìm về.
Trên núi quần tiên ở,
Địa vị thanh cao cắt ngăn bằng mưa gió.
Có biết chăng sinh mệnh trăm vạn thương sinh,
Chịu đắng cay đoạ đầu ở trên những núi đồi đó.
Nhân tiện hỏi quan Gián Nghị,
Bao giờ đám thương sinh đó được nghỉ ngơi?
—
LƯ ĐỒNG (盧仝 778-835)
Lư Đồng hay còn gọi là Lô Đồng có bút hiệu là Ngọc Xuyên Tử.Người đất Tề Nguyên (nay thuộc Hà Nam của Trung Quốc, có tài liệu khác ghi quê ở Tứ Xuyên, tỉnh Giang Tây); học rộng, thơ hay. Sống vào thời Đường Hiến Tông (802-821), ông được Đường Hiến Tông mời vào triều phong làm Gián nghị đại phu nhưng ông không nhận, chỉ thích ẩn cư trong núi Thiếu Thất, dạo chơi sơn thủy, uống trà làm thơ. Ông có bài “Trà ca” rất nổi tiếng.
Nguồn: http://www.saimonthidan.com/?c=author&a=864
–
Picture source: https://www.pinterest.com/pin/310115124319453766/
Bài Thơ và Tranh thấm đẫm ” chất cổ điển Trung Hoa!”
LikeLiked by 3 people
Dạ chú. Bài này nổi tiếng xưa nay mà con chưa thấy ai dịch, mới đây Vũ Thế Ngọc dịch, mà con thấy có tranh đẹp nữa nên chia sẻ. Lô Đồng đang thưởng trà ngon mà vẫn nhớ tới dân khổ sở lầm than.
Người Tàu lục địa thời nay thua tiền nhân của họ xa.
LikeLiked by 1 person